Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

Nghiên cứu về thị trường, nền kinh tế thị trường, Study Guides, Projects, Research of Creative Thinking

phân tích đánh giá về thị trường và nền kinh tế thị trường qua chủ nghĩa Mác-Lênin

Typology: Study Guides, Projects, Research

2019/2020

Available from 09/05/2021

huyen-pham-5
huyen-pham-5 🇻🇳

2 documents

1 / 32

Toggle sidebar

This page cannot be seen from the preview

Don't miss anything!

bg1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LUẬN CHÍNH TRỊ

MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC –LÊNIN
TIỂU LUẬN
LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC NIN VỀ
THỊ TRƯỜNG, CHẾ THỊ TRƯỜNG, NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TRONG SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA HỘI, LIÊN HỆ VỚI NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 06 năm 2021
pf3
pf4
pf5
pf8
pf9
pfa
pfd
pfe
pff
pf12
pf13
pf14
pf15
pf16
pf17
pf18
pf19
pf1a
pf1b
pf1c
pf1d
pf1e
pf1f
pf20

Partial preview of the text

Download Nghiên cứu về thị trường, nền kinh tế thị trường and more Study Guides, Projects, Research Creative Thinking in PDF only on Docsity!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN TIỂU LUẬN

LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊ NIN VỀ

THỊ TRƯỜNG, CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG, NỀN KINH TẾ

THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TRONG SỰ

PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI, LIÊN HỆ VỚI NỀN KINH TẾ

THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 06 năm 2021

ĐIỂM ………………………………………………………………………………………

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN

3.1.1 Những thành tựu đạt được của nền kinh tế thị trường ở nước ta trong

thời gian qua.................................................................................................. 15

3.1.2 Những hạn chế còn tồn tại của kinh tế thị trường hiện nay................ 19

3.2 Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của nền kinh tế thị trường ở

nước ta hiện nay.................................................................................................. 22

3.2.1 Phát triển mạnh nguồn lao động chất lượng cao , nâng cao dân trí, đào

tạo nhân tài.................................................................................................... 22

3.2.2 Tăng cường năng lực khoa học - công nghệ quốc gia ....................... 23

3.2.3 Hoàn thiện cơ chế chính sách về kinh tế thị trường, phát huy vai trò

của Nhà nước trong quản lý kinh tế.............................................................. 24

PHẦN 4: PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................. 24

4.1 Kết luận vấn đề nghiên cứu............................................................................. 24

4.2 Ý nghĩa vấn đề nghiên cứu đối với bản thân.................................................. 26

TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 28

PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, là kết quả phát triển lâu dài của lực lượng sản xuất và xã hội hóa các quan hệ kinh tế, trải qua các giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai, kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường hiện đại. Tuy nhiên, không có mô hình kinh tế thị trường chung cho mỗi quốc gia và mọi giai đoạn phát triển. Mỗi nước có những mô hình kinh tế thị trường khác nhau như mô hình kinh tế thị trường tự do mới ở Hoa Kỳ, kinh tế thị trường xã hội ở cộng hòa Liên bang Đức, kinh tế thị trường ở Nhật Bản, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc...Điều đó có nghĩa, mỗi nền kinh tế thị trường vừa có những đặc trưng tất yếu không thể thiếu của nền kinh tế thị trường nói chung vừa có những đặc trưng phản ánh điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Đối với Việt Nam, kinh tế thị trường luôn là mối quan tâm hàng đầu bởi đó là vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta. Nền kinh tế thị trường đang trở thành yếu tố quyết định đến sự phát triển và gắn kết nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Và để làm rõ vấn đề này nhóm chúng em chọn đề tài: “Lý luận của Kinh tế chính trị Mác – Lê nin về thị trường, cơ chế thị trường, nền kinh tế thị trường và vai trò của thị trường trong sự phát triển của xã hội, liên hệ với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”. 2.Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là thị trường, cơ chế thị trường, nền kinh tế thị trường (khái niệm). Nghiên cứu vai trò của thị trường trong sự phát triển của xã hội (quy luật, cạnh tranh, vai trò). Liên hệ vấn đề nghiên cứu với thực tiễn nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (thực trạng phát triển, những thành tựu đạt được kèm theo những hạn chế còn tồn tại). Đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

Thị trường là tổng hòa những quan hệ kinh tế trong đó nhu cầu của các chủ thể được đáp ứng thông qua việc trao đổi mua bán với sự xác định giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ tương ứng với trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội. Như vậy thị trường có thể được nhận diện ở cấp độ cụ thể quan sát được như chợ, cửa hàng, quầy hàng lưu động, phòng giao dịch hay siêu thị với hình thức tổ chức giao dịch, mua bán khác. Một quan niệm khác về thị trường: Thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và các quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu cho ai đều được dung hòa bằng sự điều chỉnh giá cả. (Nguồn: David Begg, Stanley Fisher, Rudiger Dornbusch, Kinh tế học, tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội 1992, trang 11) 2.1.2 Cơ chế thị trường Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ kinh tế mang đặc tính tự điều chỉnh các cân đối của nền kinh tế theo yêu cầu của các quy luật kinh tế. Dấu hiệu đặc trưng của cơ chế thị trường là cơ chế hình thành giá cả một cách tự do. Người bán, người mua thông qua thị trường để xác định giá cả của hàng hóa, dịch vụ. Cơ chế thị trường là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các nguồn vốn, tài nguyên, công nghệ, sức lao động, thông tin, trí tuệ...Đây là một kiểu cơ chế vận hành nền kinh tế mang tính khách quan, do bản thân nền sản xuất hàng hóa hình thành. Cơ chế thị trường được A.Smith ví như là một bàn tay vô hình có khả năng tự điều chỉnh các quan hệ kinh tế. 2.1.3 Nền kinh tế thị trường Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là nền kinh tế hàng hoá phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường. Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử từ kinh tế tự nhiên, tự túc, kinh tế hàng hoá rồi từ kinh tế hàng hoá phát triển thành kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường cũng trải qua quá

trình phát triển ở các trình độ khác nhau từ kinh tế thị trường sơ khai đến kinh tế thị trường hiện đại ngày nay. Như vậy, một lần nữa khẳng định nền kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại. Quan điểm của P. Samuelson về nền kinh tế thị trường: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó các cá nhân và các hãng tư nhân đưa ra các quyết định chủ yếu về sản xuất và tiêu dùng. Các hãng sản xuất hàng tiêu dùng thu được lợi nhuận cao nhất bằng các kỹ thuật sản xuất có chi phí thấp nhất. (Nguồn: P. Samuelson, Kinh tế học, tập 1, bản dịch tiếng Việt, NXB Chính trị quốc gia, H, 1997, trang 35) Đặc trưng của nền kinh tế thị trường: Thứ nhất , kinh tế thị trường đòi hỏi sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật. Thứ hai , thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực xã hội thông qua hoạt động của thị trường bộ phận như thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ... Thứ ba , giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường; cạnh tranh vừa làm, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển. Thứ tư , động lực trực tiếp của các chủ thể sản xuất kinh doanh là lợi ích kinh tế - xã hội. Thứ năm , nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các quan hệ kinh tế, đồng thời nhà nước thực hiện khắc phục những khuyết tật của thị trường, thúc đẩy những yếu tố tích cực, đảm bảo sự bình đẳng xã hội và sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. Thứ sáu , kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, thị trường trong nước gắn liền với thị trường quốc tế. Các đặc trưng này mang tính phổ biến của mọi nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể, tùy theo chế độ chính trị xã hội của mỗi quốc gia mà các

Tóm lại, quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn, đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất, vừa có cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực. Các tác động đó diễn ra một cách khách quan trên thị trường nên cần có sự điều tiết của nhà nước để hạn chế tiêu cực, thúc đẩy tác động tích cực. Quy luật cung - cầu Quy luật cung cầu là quy luật kinh tế điều tiết quan hệ giữa cung (bên bán) và cầu (bên mua) hàng hóa trên thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung – cầu phải có sự thống nhất, nếu không có sự thống nhất giữa chúng thì sẽ có các nhân tố xuất hiện điều chỉnh chúng. Trên thị trường, cung - cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Nếu cung lớn hơn cầu thì giả cả thấp hơn giá trị; ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị; nếu cung bằng cầu thi giá cả bằng với giá trị. Đây là sự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau. Quy luật cung - cầu có tác dụng điều tiết quan hệ giữa sản xuất và lưu thông hàng hoá, làm biến đổi cơ cấu và dung lượng thị trường, quyết định giá cả thị trường. Căn cứ quan hệ cung - cầu, có thể dự đoán xu thế biến động của giá cả, khi giá cả thay đổi, cần đưa ra các chính sách điều tiết giá cho phù hợp nhu cầu thị trường. VD: Trong trường hợp miếng đất ở trên, nếu thời điểm ban đầu tổng cung cao, người mua có thể mua được sp với giá tốt, tuy nhiên đến thời điểm cao điểm, khi tổng cầu lớn hơn tổng cung, điểm cân bằng giá trị thông qua giá cả sẽ bị thị trường đẩy lên cao do đó người mua có thể phải thanh toán mức giá cao hơn, đến thời điểm tổng cầu giảm đến mức nhỏ hơn tổng cung, có thể mức giá sẽ xuống thấp hơn nhiều so với mức giá người mua mua vào ban đầu. Quy luật lưu thông tiền tệ

Theo CMác, để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, ở mỗi thời kỳ cần phải đưa vào lưu thông một số lượng tiền tệ thích hợp. Số lượng tiền cần cho lưu thông hàng hoá được xác định theo một quy luật là quy luật lưu thông tiền tệ. Theo quy luật này, số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kỳ nhất định được xác định bằng công thức tổng quát sau: M= (P.Q)/ V Trong đó M là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định; P là mức giá cả, Q là khối lượng hàng hóa dịch vụ đưa ra lưu thông; V là số vòng lưu thông của đồng tiền. Quy luật lưu thông tiền tệ tuân theo các nguyên lý sau: Lưu thông tiền tệ và cơ chế lưu thông tiền tệ do cơ chế lưu thông hàng hoá quyết định. Số lượng tiền được phát hành và đưa vào lưu thông phụ thuộc vào khối lượng hàng hóa được đưa ra thị trường. Khi tiền giấy ra đời, thay thế tiền vàng trong thực hiện chức năng phương tiện lưu thông đã làm xuất hiện khả năng tách rời lưu thông hàng hóa với lưu thông tiền tệ. Tiền giấy bản thân nó không có giá trị mà chỉ là ký hiệu giá trị. Nếu tiền giấy được phát hành quá nhiều, vượt quả lượng tiền vùng cần thiết cho lưu thông mà tiền giấy là đại diện, sẽ làm cho tiền giấy bị mất giá trị, giá cả hàng hóa tăng lên dẫn đến lạm phát. Bởi vậy, nhà nước không thể in và phát hành tiền giấy một cách tùy tiện mà phải tuân theo quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật cạnh tranh Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều tiết một cách khách quan mối quan hệ ganh đua kinh tế giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hoá. Khi đã tham gia thị trường, các chủ thể sản xuất kinh doanh bên cạnh sự hợp tác, luôn phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh là sự ganh đua giữa những chủ thể kinh tế với nhau nhằm có được những ưu thế về sản xuất cũng như tiêu thụ và thông qua đó mà thu được lợi ích tối đa.

Trong nền kinh tế thị trường để nâng cao năng lực cạnh tranh, các chủ thể sản xuất kinh doanh không ngừng tìm kiếm và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, từ đó kéo theo sự đổi mới về trình độ tay nghề, tri thức của người lao động. Thứ hai , cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hành vi của mọi chủ thể kinh tế đều hoạt động trong môi trường cạnh tranh. Hơn nữa, mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều nhằm mục đích lợi nhuận tối đa, muốn vậy ngoài việc hợp tác, họ cũng cạnh tranh với nhau để có được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và kinh doanh để thu được lợi nhuận cao nhất. Thứ ba , cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ các nguồn lực. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi việc tiếp cận các nguồn lực phải dựa trên nguyên tắc cạnh tranh để phân bổ vào chủ thể có thể sử dụng hiệu quả hơn cả. Theo đó, các chủ thể sản xuất kinh doanh phải thực hiện cạnh tranh để có được cơ hội sử dụng các nguồn lực để phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Thứ tư, cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, mục đích của các chủ thể kinh tế là lợi nhuận cao nhất, mà người tiêu dùng là người cuối cùng quyết định chủng loại, số lượng và chất lượng của hàng hóa trên thị trường. Chỉ có những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng lựa chọn thì mới bán được và do đó người sản xuất mới có lợi nhuận. Vì vậy, những người sản xuất phải tìm mọi cách tạo ra khối lượng sản phẩm đa dạng, dồi dào, phong phú, chất lượng tốt, giá thành hạ, làm cho nhu cầu của người tiêu dùng và xã hội được đáp ứng. Những tác động tiêu cực của cạnh tranh Khi thực hiện cạnh tranh thiếu lành mạnh, cạnh tranh có thể dẫn tới các tác động tiêu cực như doanh như:

Một là , cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại môi trường kinh doanh. Khi các chủ thể thực hiệu các biện pháp cạnh tranh thiếu lành mạnh, thậm chí là các thủ đoạn xấu để tìm kiếm lợi thế sẽ làm xói mòn đến môi trường kinh doanh, thậm chí xói mòn giá trị đạo đức xã hội. Do đó, các biện pháp thủ đoạn cạnh tranh thiếu lành mạnh cần phải được loại trừ. Hai là , cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phi nguồn lực xã hội. Để giành ưu thế trong cạnh tranh, có thể có chủ thể chiếm giữ các nguồn lực mà không phát huy vai trò của các nguồn lực đó trong sản xuất kinh doanh, không đưa vào sản xuất để tạo ra hàng hóa, dịch vụ cho xã hội. Trong những trường hợp như vậy, cạnh tranh đã làm cho nguồn lực xã hội bị lãng phí hội. Ba là , cạnh tranh không lành mạnh gây làm tổn hại phúc lợi của xã. Khi các nguồn lực bị lãng phí, cạnh tranh không lành mạnh đã khiến cho phúc lợi xã hội bị tổn thất. Thay vì nếu sử dụng hiệu quả, xã hội sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn hơn để thỏa mãn nhu cầu. Cho nên, khi các chủ thể sử dụng các biện pháp cạnh tranh thiếu lành mạnh, phúc lợi xã hội sẽ bị ảnh hưởng. 2.2.3 Vai trò của một số chủ thể chính tham gia thị trường Với tư cách là môi trường cho các quan hệ sản xuất và trao đổi phát huy tác dụng dưới tác động của các quy luật thị trường, có rất nhiều chủ thể khác nhau tham gia trị trường, mỗi chủ thể có những vai trò quan trọng riêng. Sau đây là vai trò của một số chủ thể chính, đó là: người sản xuất, người tiêu dùng, các chủ thể trung gian trong thị trưởng và nhà nước. Cụ thể: Người sản xuất Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ ra thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao gồm các nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ... Họ là những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất, sản phẩm cho xã hội để phục vụ tiêu dùng. Người sản xuất là những người sử

vi quốc tế. Bên cạnh đó cũng có nhiều loại hình trung gian không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức (lừa đảo, môi giới bắt hợp pháp…). Những trung gian này cần được loại trừ. Nhà nước Trong nền kinh tế thị trường, xét về vai trò kinh tế, nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế đồng thời thực hiện những biện pháp để khắc phục những khuyết tật của thị trường. Với trách nhiệm như vậy, một mặt, nhà nước thực hiện quản trị phát triển nền kinh tế thông qua việc tạo lập môi trường kinh tế tốt nhất cho các chủ thể kinh tế phát huy sức sáng tạo của họ. Mặt khác việc tạo ra các rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh từ phía nhà nước sẽ làm kìm hãm động lực sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Các rào cản như vậy phải được loại bỏ. 2.3 Ý nghĩa phưong pháp luận Thị trường đóng vai trò đặc biệt quan trọng; thị trường là đầu ra của sản xuất, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Không có thị trường thì sản xuất và trao đổi hàng hóa không thể tiến hành trôi chảy được. Trên thị trường, các quy luật kinh tế hoạt động, tác động lẫn nhau và điều tiết toàn bộ quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Một nền kinh tế dựa vào hoạt động của thị trường, chịu sự điều tiết của các quy luật kinh tế trên thị trường được gọi là nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, ở đó, mọi quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường, dưới hình thức quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Kinh tế thị trường có nhiều ưu thế trong phát triển sản xuất. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật. Những khuyết tật này có thể khắc phục thông qua phát huy vai trò kinh tế của nhà nước, các tổ chức xã hội và các thiết chế kinh tế khác trong xã hội. Các chủ thể kinh tế cùng tham gia sản xuất và trao đổi hàng hóa trên thị trường bao gồm người sản xuất, người tiêu dùng, các thương nhân, nhà nước, khu vực nước ngoài.

Mỗi chủ thể có vai trò, vị trí khác nhau trong quá trình sản xuất, trao đổi hàng hóa và là một tác nhân của nền kinh tế thị trường. Hoạt động của mỗi chủ thể đều chịu sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường, đồng thời tuân thủ sự điều tiết, định hướng của nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và chính sách kinh tế. 2.3.1 ý nghĩa lý luận Lý luận về " nền kinh tế thị trường " chứa đựng những yếu tố hợp lý và cần thiết cho việc lựa chọn mô hình kinh tế vừa nhằm tạo ra tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đồng thời lại nhằm bảo đảm công bằng xã hội. Do đó, chúng ta có thể học tập những kinh nghiệm của các nước theo mô hình này để xây dựng một mô hình hoàn thiện về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hay nói cách khác, xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế - xã hội mà ở đó các quan hệ kinh tế, sự trao đổi, sự mua bán các sản phẩm và nhất là sự phân chia lợi ích, tìm kiếm lợi nhuận ... đều do các quy luật của thị trường điều tiết và chi phối. Không thu được lợi nhuận thì người sản xuất, kinh doanh không còn động lực để tiếp tục, nhất là để thúc đẩy công việc sản xuất và kinh doanh của họ, do đó sự trì trệ của xã hội là khó tránh khỏi. Cho nên có thể nói kinh tế thị trường là thành quả quan trọng của sự phát triển lâu dài trong nền văn minh của toàn thể nhân loại từ khi nó xuất hiện chứ không phải là của riêng hoặc là độc quyền của một hình thái kinh tế - xã hội nào. Trong vài thập niên gần đây, một số nước tư bản có nền kinh tế thị trường phát triển đã thực hiện những giải pháp nhằm giảm bớt sự bất bình đẳng trong xã hội, nhờ đó đời sống của một bộ phận người lao động được cải thiện. Tuy nhiên, do bản chất bằng mọi cách tìm kiếm lợi nhuận tối đa, do những mâu thuẫn vốn có trong xã hội tư bản không thể điều hòa được (chứ chưa nói là giải quyết triệt để) cho nên nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không thể loại bỏ được sự bất công, sự bất bình đẳng xã hội và sự phân cực giàu nghèo đang ngày càng sâu sắc hơn. Vì vậy, để khắc phục những mâu thuẫn, đồng thời, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa thì nền

Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. PHẦN 3: KIẾN THỨC LIÊN HỆ LIÊN HỆ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỚI THỰC TIỄN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1 Thực trạng phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay 3.1.1 Những thành tựu đạt được của nền kinh tế thị trường ở nước ta trong thời gian qua Tháng 2 năm 1986 Đại hội toàn quốc lần thứ 6 Đảng cộng sản Việt Nam đã tự phê phán nghiêm túc và đề ra đổi mới toàn diện xã hội. Đặc biệt là đổi mới về mặt kinh tế đó là chuyển sang nền kinh tế thị trường đồng thời cho chúng ta thấy rõ một nhận thức. Không thể tách rời các mục tiêu kinh tế xã hội ra khởi các mục tiêu kinh tế của bất cứ một chính sách kinh tế xã hội nào ,các yếu tố xã hội được xem như là sức mạnh nội sinh. Nói đến mục tiêu xã hội,chính là nói tới con người, từng lợi ích của con người và từng cộng

đồng xã hội. Con người vừa là nguồn lực quan trọng nhất vưa là đối tượng hướng tới hành vi kinh tế. Trải qua 30 năm đổi mới, nền kinh tế đất nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng về hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng theo xã hội chủ nghĩa. Đó chính là bước ngoặt trong đổi mới tư duy kinh tế, đồng thời là đổi mới trong thay đổi mô hình phát triển xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới của hiện nay. Sau giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) với mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%, nền kinh tế Việt Nam đang dần khẳng định mình với những kết quả tăng trưởng rất ấn tượng. Trong giai đoạn 1991-1995, mức GDP bình quân tăng 8,2%/năm, gấp đôi so với 5 năm trước đó. Tiếp đến là giai đoạn 2006-2010, ảnh hưởng bởi sự suy giảm kinh tế của thế giới, nhưng Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm. Đặc biệt, giai đoạn 2011-2015, dưới áp lực phải chịu tác động từ hai cuộc khủng hoảng, là khủng hoảng tài chính toàn cầu (năm 2008) và khủng hoảng nợ công (năm 2010), nhưng với sự nỗ lực của mình tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn đạt 5,9%/năm, được đánh giá là mức cao của khu vực và thế giới. Nhờ vậy, trong giai đoạn này quy mô của nền kinh tế Việt Nam được cải thiện và khởi sắc tăng nhanh. Về nông nghiệp:Từ một nền nông nghiệp nghèo nàn,lạc hậu hiện nay nông nghiệp nước ta có nhiều đổi mới. Sự nghiệp công nghiệp hoá -hiện đại hoá đưa máy móc vào sản xuất nông nghiệp đã giải phóng dần dần sức lao động của người dân.Việc áp dụng khoa học kỹ thuật,đưa phân bón, thuốc trừ sâu, các giống lúa mới, kỹ thuật canh tác mới vào sản xuất đã nâng cao năng suất lao động. Sản lượng nông nghiệp không những đáp ứng nhu cầu của người dân mà còn dư thừa để xuất khẩu.Thành tựu to lơn đó phải kể đến là nước ta đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Bên cạnh đó xuất khẩu cà-phê, cao-su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới. Việc ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ cao, đã tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng kinh tế tri thức.